Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt là gì? Các công bố khoa học về Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt

Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (BPH) là tình trạng phổ biến ở nam giới tuổi trung niên và cao tuổi, ảnh hưởng đến khả năng tiết niệu do phì đại tuyến tiền liệt. Triệu chứng thường gặp gồm niệu đêm, khó tiểu và cảm giác không rỗng bàng quang hoàn toàn. Nguyên nhân chưa rõ ràng, nhưng tuổi tác và thay đổi hormone có thể góp phần. Chẩn đoán BPH gồm khám trực tràng, xét nghiệm nước tiểu và máu, siêu âm. Điều trị bao gồm thay đổi lối sống, dùng thuốc và phẫu thuật. Quan trọng là nhận biết sớm triệu chứng để điều trị kịp thời.

Tăng Sản Lành Tính Tuyến Tiền Liệt: Giới Thiệu

Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (BPH - Benign Prostatic Hyperplasia) là một tình trạng phổ biến ảnh hưởng đến tuyến tiền liệt ở nam giới, đặc biệt là ở những người tuổi trung niên và cao tuổi. Tuyến tiền liệt là một tuyến nhỏ, kích thước như quả óc chó, nằm dưới bàng quang và bao quanh niệu đạo. Vai trò chính của tuyến này là sản xuất dịch nhầy, một phần của tinh dịch. Khi tuyến tiền liệt phì đại, nó có thể gây ra các vấn đề về tiết niệu do tạo áp lực lên niệu đạo.

Triệu Chứng Phổ Biến

Các triệu chứng của BPH thường liên quan đến vấn đề tiết niệu và có thể bao gồm:

  • Nhịn tiểu thường xuyên hơn, đặc biệt là vào ban đêm (niệu đêm).
  • Khó bắt đầu tiểu tiện.
  • Dòng nước tiểu yếu hoặc gián đoạn.
  • Cảm giác không hoàn toàn làm rỗng bàng quang sau khi đi tiểu.
  • Đi tiểu cấp bách và không tự chủ được khi muốn tiểu.

Các triệu chứng này thường gây khó chịu, nhưng không nhất thiết phải liên quan đến kích thước tuyến tiền liệt mà chủ yếu là mức độ chèn ép của nó lên niệu đạo.

Nguyên Nhân Và Yếu Tố Nguy Cơ

Hiện tại, nguyên nhân chính xác của BPH vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng có một số yếu tố được xác định là liên quan đến sự phát triển của tình trạng này, gồm:

  • Tuổi tác: Tỷ lệ BPH tăng lên rõ rệt ở nam giới trên 40 tuổi.
  • Thay đổi Hormone: Hormone testosterone và dihydrotestosterone (DHT) có vai trò quan trọng trong sự phát triển của tuyến tiền liệt.
  • Yếu tố di truyền: Có thể tồn tại trong các gia đình.

Kỹ Thuật Chẩn Đoán

Chẩn đoán BPH thường bắt đầu bằng việc lấy bệnh sử và kiểm tra lâm sàng, sau đó có thể bao gồm một số xét nghiệm như:

  • Khám trực tràng: Giúp xác định kích thước và sự nhất quán của tuyến tiền liệt.
  • Xét nghiệm nước tiểu và máu: Để loại trừ các bệnh lý khác và kiểm tra chức năng thận.
  • Siêu âm: Giúp xác định thể tích tuyến tiền liệt và tình trạng bàng quang.
  • Lưu lượng nước tiểu: Đánh giá tốc độ dòng tiểu.

Phương Pháp Điều Trị

Điều trị BPH phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và có thể bao gồm:

  • Thay đổi lối sống: Giảm lượng nước uống vào buổi tối, tập bài tập sàn chậu.
  • Thuốc: Các loại thuốc như chất ức chế testosterone hoặc alpha-blocker thường được sử dụng để giảm triệu chứng.
  • Phẫu thuật: Trong trường hợp triệu chứng nghiêm trọng, một số phương pháp phẫu thuật có thể được áp dụng để loại bỏ phần tuyến tiền liệt bị phì đại.

Kết Luận

Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt là một tình trạng phổ biến ở nam giới lớn tuổi, và mặc dù không gây nguy hiểm đến tính mạng, nó có thể ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng sống. Việc nhận biết các triệu chứng sớm và tìm kiếm tư vấn y tế để kiểm soát hoặc điều trị kịp thời là điều quan trọng, giúp giảm nhẹ ảnh hưởng của BPH đối với cuộc sống hàng ngày của người bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tăng sản lành tính tuyến tiền liệt":

Hình ảnh trực tiếp củaPropionibacterium acnestrong mô tuyến tiền liệt bằng phân tích lai tại chỗ huỳnh quang đa màu Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 45 Số 11 - Trang 3721-3728 - 2007
TÓM TẮT

Các mô tuyến tiền liệt từ những bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt và tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH) thường có khả năng viêm mô học, và một tỷ lệ trong số các bệnh nhân này có bằng chứng nhiễmPropionibacterium acnestrong tuyến tiền liệt. Chúng tôi đã phát triển một phương pháp phân tích lai tại chỗ huỳnh quang đa màu (FISH) nhắm mục tiêu đếnP. acnes23S rRNA cùng với vùng 14-kb của bộ genP. acnes. Phương pháp này được sử dụng để phân tích các mô tuyến tiền liệt từ bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và BPH. Nhiễm trùngP. acnescủa tuyến tiền liệt được chứng minh trong mô tiền liệt ở 5 trên 10 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt được chọn ngẫu nhiên. Phân tích FISH và hình ảnh từ kính hiển vi laser đồng tiêu cho thấy sự định vị nội bào và sự xuất hiện của tập hợp giống màng sinh học trong mô tuyến tiền liệt từ cả bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và BPH. Phân tích tuần tự mô tuyến tiền liệt từ từng bệnh nhân cho thấyP. acnescó thể tồn tại tới 6 năm trong tuyến tiền liệt. Những kết quả này chỉ ra rằngP. acnescó thể thiết lập một tình trạng nhiễm trùng lâu dài trong tuyến tiền liệt. Cần có nghiên cứu thêm để làm rõ mối liên hệ giữa vi khuẩn này và tình trạng viêm tuyến tiền liệt có thể góp phần phát triển BPH và ung thư tuyến tiền liệt.

#Propionibacterium acnes #ung thư tuyến tiền liệt #tăng sản tuyến tiền liệt lành tính #phân tích lai tại chỗ huỳnh quang #viêm tố tuyến #vi khuẩn học #màng sinh học #định vị nội bào #nghiên cứu lâu dài
Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt bằng kết hợp thuốc alpha blocker và ức chế 5-alpha reductase so với đơn trị liệu bằng alpha blocker
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của liệu pháp kết hợp avodart 0,5mg và doxazosin 2mg so với đơn trị liệu bằng doxazosin 2mg trong điều trị các bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có triệu chứng IPSS ở mức độ trung bình. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu ngẫu nhiên, nhãn mở, nhóm song song. Tổng số 100 bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có điểm IPSS 8 - 19, thể tích tuyến tiền liệt ≥ 30gram, PSA < 4ng/ml. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm, nhóm 1 gồm 50 bệnh nhân được điều trị avodart 0,5mg kết hợp doxazosin 2mg, nhóm 2 gồm 50 bệnh nhân chỉ được điều trị doxazosin 2mg, theo dõi và đánh giá kết quả điều trị sau 6 tháng. Tiêu chí đánh giá chính là thay đổi điểm IPSS ở thời điểm 6 tháng so với bắt đầu điều trị. Các tiêu chí đánh giá phụ bao gồm: Tình trạng tiến triển lâm sàng, chất lượng cuộc sống, thể tích tuyến tiền liệt, nước tiểu tồn dư, tình trạng bí đái cấp và chuyển sang phẫu thuật. Kết quả: Điều trị kết hợp hai thuốc làm giảm điểm IPSS 4,68 điểm, trong khi đơn trị liệu bằng doxazosin 2mg chỉ giảm 0,02 điểm IPSS sau 6 tháng điều trị (p<0,05). Sau 6 tháng, điều trị kết hợp thuốc cũng làm giảm 66% nguy cơ tiến triển lâm sàng, trong khi đơn trị liệu chỉ làm giảm 34% (p<0,05). Chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn ở nhóm điều trị kết hợp so với nhóm đơn trị liệu, tương ứng là -1,46 điểm so với 0,14 điểm (p<0,05). Sau 6 tháng, thể tích tuyến tiền liệt giảm 26,3% ở nhóm điều trị phối hợp, trong khi đó tăng 0,5% ở nhóm đơn trị liệu. Thể tích nước tiểu tồn dư cũng giảm 40% ở nhóm điều trị phối hợp, nhưng lại tăng đến 40% ở nhóm đơn trị liệu. 12% bệnh nhân nhóm đơn trị liệu có bí tiểu sau 6 tháng điều trị, trong khi tỷ lệ này ở nhóm điều trị phối hợp chỉ 2%. Sau 6 tháng, 2% số bệnh nhân ở nhóm đơn trị liệu phải chuyển sang phẫu thuật. Kết luận: Liệu pháp điều trị phối hợp làm giảm nhanh và bền vững các triệu chứng ở bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có triệu chứng ở mức độ trung bình, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm đáng kể nguy cơ tiến triển của bệnh.
#Avodart #doxazosin #điều trị kết hợp #tăng sản lành tính tuyến tiền liệt
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT BẰNG PHƯƠNG PHÁP NÚT ĐỘNG MẠCH TUYẾN TIỀN LIỆT
Mục tiêu: mô tả phân tích kỹ thuật điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp can thiệp nội mạch và bước đầu đánh giá hiệu quả điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt bằng phương pháp can thiệp nội mạch tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh (CĐHA), Bệnh viện Bạch Mai.Phương pháp và kết quả: phương pháp nghiên cứu can thiệp tiến cứu, thực nghiệm không đối chứng thời gian từ T12/2013 đến T11/2014 đã tiến hành 12 lần nút động mạch TTL. Tuổi trung bình 67,1 (51-84), điểm trung bình IPSS, Qol, Qmax (ml/s), PVR (ml), PSA (ng/ml), PV (cm3) trước can thiệp lần lượt là 26,6; 4,8; 8,86; 59; 4,95; 68.7 sau can thiệp 3 tháng các chỉ số này có giá trị cải thiện lần lượt là 45,86%; 41,67%; 55,76%; 37,96%; 28,75%, 25,47%.Kết luận: điều trị tăng sản LTTTL là một biện pháp điều trị an toàn, hiệu quả tại Khoa CĐHA, Bệnh viện Bạch Mai.
#tuyến tiền liệt #tăng sản lành tính tuyến tiền liệt #nút động mạch tuyến tiền liệt
CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ TĂNG SẢN TUYẾN TIỀN LIỆT LÀNH TÍNH SỬ DỤNG N-BUTYL CYANOACRYLATE: VẬT LIỆU THAY THẾ THÍCH HỢP CHO VI HẠT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 524 Số 1B - 2023
Mục tiêu: nghiên cứu nhằm đánh giá tính an toàn và kết quả ngắn hạn của phương pháp nút động mạch tuyến tiền liệt bằng keo N-butyl cyanoacrylate (NBCA) trong điều trị tăng sản tuyến tiền liệt lành tínhvới triệu chứng đường tiểu dưới. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm trên 15 bệnh nhân (tuổi trung bình, 65 ± 20,5 tuổi; 45 – 85 tuổi) được tiến hành PAE bằng hỗn hợp NBCA và lipiodol (tỷ lệ từ 14: - 1:8) để điều trị BPH từ tháng 6 năm 2022 đến tháng 9 năm 2022. Kết quả: Tổng thể tích NBCA/Lipiodol được dùng trung bình là 1,2 ±0,3 ml, tổng thời gian bơm là 20,5 ± 3,4 giây và tổng liều tia là 15.554 ± 14.397 mGy·cm. Những cải thiện đáng kể về mặt thống kê về điểm IPSS, điểm chất lượng cuộc sống QoL và thể tích tuyến tiền liệt tại thời điểm sau 1 tháng PAE. Không có biến chứng lớn nào được ghi nhận. Chỉ số quốc tế về chức năng cương dương (IIEF5) không thay đổi đáng kể. Kết luận: Nút động mạch tuyến tiền liệt bằng NBCA để điều trị tăng sản tuyến tiền liệt lành tính có triệu chứng là khả thi, an toàn, nhanh chóng và hiệu quả.
#nam giới #triệu chứng đường tiết niệu dưới; tăng sản lành tính tuyến tiền liệt; nút động mạch tuyến tiền liệt #N-butyl cyanoacrylate
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI QUA ĐƯỜNG NIỆU ĐẠO CẮT PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC Ở BỆNH NHÂN CÓ BỆNH LÝ TIM MẠCH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi qua đường niệu đạo cắt phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng điện lưỡng cực ở bệnh nhân có bệnh lý tim mạch. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi tiến cứu trên 63 bệnh nhân bị u phì đại lành tính tuyến tiền liệt (UPĐLTTTL) có bệnh lý tim mạch kèm theo được điều trị bằng cắt đốt nội soi qua đường niệu đạo bằng điện lưỡng cựctại bệnh viện Đại Học Y Hà Nội từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 5 năm 2021. Kết quả: NC hồi cứu 63 BN,độ tuổi trung bình là 73.5 ± 9.1, bệnh lý tim mạch đồng mắc: tăng huyết áp (THA) 73%, rối loạn nhịp tim 19.1%, bệnh mạch vành 9.5%, đặt máy tạo nhịp 6.4%, 8 bệnh nhân dùng thuốc chống đông. Điểm IPSS và QoL trước mổ 22.5 ± 3.8 và 4.6 ± 0.7, trọng lượng tuyến tiền liệt 68.3 ± 31.8g, phân suất tống máu (EF) trên siêu âm tim 68.9 ± 6.0%. Thời gian phẫu thuật 55.3 ± 21.4 phút, thời gian hậu phẫu 6.4 ± 2.0 ngày. Không gặp biến chứng trong mổ. Không có trường hợp nào đau thắt ngực, khó thở hay phải can thiệp tim mạch. Ba trường hợp biến chứng sau mổ: 2 chảy máu và 1 đau tức chân 2 bên, tất cả đều được điều trị nội ổn định. Tái khám 1 tháng không có trường hợp nào phải nhập viện điều trị về tim mạch, 1 trường hợp tử vong do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Kết luận: Phẫu thuật nội soi qua đường niệu đạo cắt phì đại tiền liệt tuyến bằng điện lưỡng cực (B-TURP) là phương pháp an toàn, hiệu quả trong điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt trên nhóm bệnh nhân có bệnh lý tim mạch.
#Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt #nội soi cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng điện lưỡng cực #nội soi cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo trong nước muối (TURIS)
ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH SIÊU ÂM, MRI VÀ CHỤP MẠCH DSA CỦA MỘT SỐ BỆNH NHÂN TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm hình ảnh siêu âm, cộng hưởng từ và chụp mạch DSA của các bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có bí tiểu cấp. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực nghiệm không đối chứng ở những bệnh nhân vào viện vì bí tiểu cấp được chẩn đoán Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (TSLTTTL) tại trung tâm Điên quang, bệnh viện Bạch Mai từ 07/2017 đến 07/2018. Thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi, khám lâm sàng, siêu âm, Chụp Cộng hưởng từ (CHT) trước và sau can thiệp. Kết quả và kết luận: Thể tích TTL trung bình của nhóm nghiên cứu trên siêu âm là 80,57 ± 50,58cm3, dày thành bàng quang chiếm 64,3%, túi thừa bàng quang chiếm 21,4%, không có bệnh nhân nào có sỏi bàng quang. Phân bố vùng tăng sản: 78,6% tăng sản vùng chuyển tiếp, 7,1% bệnh nhân tăng sản vùng trung tâm, và 14,3% tăng sản cả vùng chuyển tiếp và vùng trung tâm, không có bệnh nhân nào tăng sản vùng ngoại vi. Thể tích TTL trung bình trên cộng hưởng từ của nhóm nghiên cứu là 82,35 ± 51.24cm3, 11 bệnh nhân có hình ảnh điển hình cho TSLTTTL, 3 bệnh nhân có tín hiệu không đồng nhất trên cộng hưởng từ, không có bệnh nhân nào có đặc điểm hình ảnh nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt. Kiểu phân chia động mạch chậu trong 26 bên khung chậu: nhóm A chiếm 69,2%, nhóm B chiếm 23,1%, nhóm C chiếm 7,7%. Với 13 bệnh nhân và 26 bên khung chậu được thực hiện thành công, có 22 bên khung chậu có 1 động mạch TTL, 4 bên khung chậu có 2 động mạch TTL. Đường kính trung bình của động mạch TTL: bên có 1 động mạch TTL là 1,92±0,52, bên có 2 động mạch TTL là1,45±0,16.
#Tuyến tiền liệt #Nút mạch
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU ĐỘNG MẠCH TUYẾN TIỀN LIỆT TRÊN PHIM CHỤP MẠCH SỐ HÓA XÓA NỀN Ở BỆNH NHÂN TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm giải phẫu của động mạch tuyến tiền liệt trên phim chụp mạch số hóa xóa nền ở bệnh nhân tăng sản lành tính TTL. Đối tượng và phương pháp: Mô tả hồi cứu và tiến cứu trên kết quả chụp mạch số hóa xóa nền của 20 bệnh nhân nam có tăng sản lành tính tuyến tiền liệt tại khoa chẩn đoán hình ảnh, bệnh viện Đại học y Hà Nội từ tháng 8/2018 đến 8/2021. Kết quả: Trong 33 bên khung chậu tìm được 35 động mạch TTL (của 20 bệnh nhân), có 2 bên khung chậu có 2 động mạch TTL (chiếm 6,1%), 31 bên khung chậu có 1 động mạch TTL (chiếm 93,9%). Về vị trí xuất phát của 35 động mạch TTL theo phân loại của Francisco Canervalle, tỉ lệ ĐM TTL xuất phát từ loại I (thân chung bàng quang), loại II (nhánh trước ĐM chậu trong), Loại III (ĐM bịt), loại IV (ĐM thẹn trong), loại V (khác) lần lượt là 20%; 2,9%; 34,3%; 31,4% và 11,4%. Xơ vữa ĐM tìm thấy trên DSA trong 11,4%. Tỷ lệ ĐM TTL có hình ảnh xoắn vặn như lò xo là 71,4 %. Đường kính trung bình ĐM TTL là 1,49 ± 0,12mm . ĐM TTL cho nhiều vòng nối với các cơ quan lân cận, ĐM TTL có thể cấp máu cho dương vật 31,4%, túi tinh17,1%, TTL bên đối diện 37,1%. Kết luận: ĐM TTL xuất phát từ động mạch bịt hay gặp nhất. Vòng nối ĐM TTL rất đa dạng, có thể cấp máu cho dương vật, túi tinh, bàng quang, ĐM TTL bên đối diện... Do đó, cần nắm vững giải phẫu và biến thể của ĐM TTL khi điều trị tăng sản lành tính TTL bằng phương pháp nút mạch.
#Động mạch tuyến tiền liệt #chụp mạch số hóa xóa nền #phân loại Francisco Canervalle
NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ SỚM ĐIỀU TRỊ TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT BẰNG PHƯƠNG PHÁP NÚT ĐỘNG MẠCH TIỀN LIỆT TUYẾN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Mục đích: Đánh giá kết quả sớm điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (TSLTTTL) bằng phương pháp can thiệp nút động mạch tiền liệt tuyến. Đối tượng và phương pháp: 52 bệnh nhân được chẩn đoán TSLTTTL, được nút động mạch tuyến tiền liệt tại Bệnh viện Quân y 354. Đánh giá kết quả sớm của kỹ thuật thông qua thang điểm IPSS (International Prostate Symptom Score), QoL (Quality of Life), lượng nước tiểu tồn dư và thể tích tuyến tiền liệt trên siêu âm. So sánh trước và sau điều trị bằng kiểm định t-test. Kết quả: Sau can thiệp 03 tháng, điểm IPSS giảm từ 31,58 điểm xuống còn 13,75; điểm QoL giảm từ 5,15 điểm xuống 1,87 điểm; thể tích tuyến tiền liệt trên siêu âm giảm từ 75,87 ± 30,07 cm3 xuống còn 50,46 ± 18,89 cm3, thể tích nước tiểu tổn dư sau can thiệp giảm từ 37,71 ± 20,28mL xuống còn 20,83 ± 8,66 mL. Sau can thiệp có 05 bệnh nhân gặp biến chứng ở mức độ nhẹ, chiếm tỷ lệ 9,6%. Kết luận: Nút động mạch tuyến tiền liệt là phương pháp hiệu quả trong điều trị TSLTTTL.
#tăng sản lành tính tuyến tiền liệt #nút động mạch tuyến tiền liệt
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ TĂNG SẢN LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT CÓ BÍ TIỂU CẤP BẰNG PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP NÚT ĐỘNG MẠCH TUYẾN TIỀN LIỆT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu điều trị tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có bí tiểu cấp bằng phương pháp can thiệp nút mạch. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu thực nghiệm không đối chứng trên 10 bệnh nhân vào viện vì bí tiểu cấp được chẩn đoán Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (TSLTTTL) và được can thiệp nút mạch tại trung tâm CĐHA và ĐQCT bệnh viện đa khoa Tâm Anh Hà nội từ 01/2021 đến 12/2022. Thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi, khám lâm sàng, siêu âm, chụp cộng hưởng từ (CHT) trước và sau can thiệp. Kết quả: Bệnh nhân được rút sonde tiểu sau trung bình 10-15 ngày. Chỉ số IPSS giảm trung bình sau 3 tháng là 18,628 điểm (58,48%). Chỉ số Qol cải trung bình sau 3 tháng là 4,063điểm (76,03%). Chỉ số lưu lượng dòng tiểu cao nhất Qmax trung bình sau 3 tháng đạt 12,46ml/s. Chỉ số lượng nước tiểu tồn dư PVR trung bình sau 3 tháng là 45,84ml. Chỉ số PSA trong huyết thanh giảm trung bình 3 tháng là 14,92ng/ml (80,95%). Thể tích TTL trên siêu âm giảm trung bình sau 3 tháng là 22,538cm3 (29,97%). Thể tích TTL trên cộng hưởng từ giảm trung bình sau 3 tháng là 26,154cm3 (31,75%). Kết luận: Điều trị TSLTTTL có bí tiểu cấp bằng nút động mạch TTL là một phương pháp hiệu quả và an toàn.
#Tuyến tiền liệt #nút mạch #bí tiểu cấp.
The effects of combination therapy with dutasteride and doxazosin on clinical outcomes in men with symptomatic benign prostatic hyperplasia
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của liệu pháp kết hợp avodart 0,5mg và doxazosin 2mg so với đơn trị liệu bằng doxazosin 2mg trong điều trị các bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có triệu chứng IPSS ở mức độ trung bình. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu ngẫu nhiên, nhãn mở, nhóm song song. Tổng số 100 bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có điểm IPSS 8-19, thể tích tuyến tiền liệt ≥ 30gram, PSA < 4ng/ml. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên làm 2 nhóm, nhóm 1 gồm 50 bệnh nhân được điều trị avodart 0,5mg kết hợp doxazosin 2mg, nhóm 2 gồm 50 bệnh nhân chỉ được điều trị doxazosin 2mg, theo dõi và đánh giá kết quả điều trị sau 6 tháng. Tiêu chí đánh giá là thay đổi điểm IPSS, tình trạng tiến triển lâm sàng, chất lượng cuộc sống, thể tích tuyến tiền liệt, nước tiểu tồn dư, tình trạng bí đái cấp và chuyển sang phẫu thuật ở thời điểm 6 tháng so với bắt đầu điều trị. Kết quả: Điều trị kết hợp hai thuốc làm giảm điểm IPSS 4,68 điểm, trong khi đơn trị liệu bằng doxazosin 2 mg chỉ giảm 0,02 điểm IPSS sau 6 tháng điều trị (p<0,05). Sau 6 tháng, điều trị kết hợp thuốc cũng làm giảm 66% nguy cơ tiến triển lâm sàng, trong khi đơn trị liệu chỉ làm giảm 34% (p<0,05). Chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn ở nhóm điều trị kết hợp so với nhóm đơn trị liệu, tương ứng là -1,46 điểm so với 0,14 điểm (p<0,05). Sau 6 tháng, thể tích tuyến tiền liệt giảm 26,3% ở nhóm điều trị phối hợp, trong khi đó tăng 0,5% ở nhóm đơn trị liệu. Thể tích nước tiểu tồn dư cũng giảm 40% ở nhóm điều trị phối hợp, nhưng lại tăng đến 40% ở nhóm đơn trị liệu. 12% bệnh nhân nhóm đơn trị liệu có bí tiểu sau 6 tháng điều trị, trong khi tỷ lệ này ở nhóm điều trị phối hợp chỉ 2%. Sau 6 tháng, 2% số bệnh nhân ở nhóm đơn trị liệu phải chuyển sang phẫu thuật. Kết luận: Liệu pháp điều trị phối hợp làm giảm nhanh và bền vững các triệu chứng ở bệnh nhân tăng sản lành tính tuyến tiền liệt có triệu chứng ở mức độ trung bình, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm đáng kể nguy cơ tiến triển của bệnh.
#Avodart #doxazosin #điều trị kết hợp #tăng sản lành tính tuyến tiền liệt #Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Tổng số: 21   
  • 1
  • 2
  • 3